Nghiên cứu hiện đại ủng hộ hàm lượng dinh dưỡng phong phú của rau cải bẹ – chúng có nhiều vitamin A hơn rau bina và nhiều vitamin C hơn cam. Mặc dù các nghiên cứu không thừa nhận tất cả các công dụng truyền thống của nó, nhưng họ cho thấy rau cải bẹ có thể mang lại một số lợi ích cho sức khỏe. Bạn có thể dùng rau cải bẹ ăn sống, luộc, hấp hoặc xào. Thật dễ dàng để thêm rau cải bẹ vào chế độ ăn uống của bạn, nó có chứa một loạt các chất dinh dưỡng thực vật mạnh mẽ.
Mô tả
Cải bẹ hay còn gọi là cải canh [ Brassica juncea (L.) Czerm et Cosson], họ Cải (Brassicaceae); là cây thảo, sống hàng năm. Thân hình trụ nhẵn, khi ra hoa có thể cao hơn 1 mét. Phiến lá to và rộng, phía dưới có rãnh sâu, lượn sóng, mép có răng cưa thô. Hoa màu vàng, mọc ở kẽ lá và ở ngọn. Quả thuôn dài, đầu có mũi nhọn. Hạt nhỏ, hình cầu, màu vàng hoặc nâu. Là cây được trồng hầu như ở tất cả các vùng trong cả nước; nhiều nhất ở các vùng đồng bằng sông Hồng, như ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương….
Rau cải bẹ có rất nhiều công dụng
Ngoài việc dùng trong y học, hạt cải bẹ còn được dùng để chế biến gia vị “mù tạt”; và dùng ép dầu làm nguyên liệu chế biến phụ tử. Là cây vừa có giá trị về mặt thực phẩm vừa có giá trị làm thuốc trong YHCT. Người ta thu hái các quả, để đập lấy hạt làm thuốc. Hạt cải bẹ có tên vị thuốc là bạch giới tử ( Semen Brassicae allbae) chứa chất dầu; mà thành phần chủ yếu là a xít béo sinapic, arachidic, crucic…; có tinh dầu, được hình thành chủ yếu sau khi thủy phân glucosid sinigrosid có trong hạt cải bởi enzym myrosinase (có trong hạt cải) để cho chất sulfat axít Kali glucose và alyl isothiacyanat (cò ngọi là tinh dầu mù tạc) có mùi đặc trưng của họ Cải.
Sản phẩm này có tác dụng kích thích da, gây sung huyết. Trên cơ sở đó làm tan các mụn nhọt, giảm đau cơ, đau dây thần kinh. Tuy nhiên nếu sử dụng thời gian dài hoặc liều cao có thể làm rộp da, hoặc gây nôn, gây viêm dạ dày, ruột, dẫn đến đau bụng. Ngoài việc dùng trong y học, hạt cải bẹ còn được dùng để chế biến gia vị “mù tạc”; và dùng ép dầu làm nguyên liệu chế biến phụ tử. Trước khi dùng, tùy theo yêu cầu có thể tiến hành chế biến theo một số phương pháp vi sao, sao đen, sao vàng.
Công dụng trong y học dân gian
Theo YHCT, bạch giới tử có tác dụng ôn phế, trừ đàm hàn, giảm đau, tiêu thũng, tán kết, thông kinh lạc, hành khí, lợi khí. Dùng trị ho hàn, nhiều đờm, suyễn tức, khó thở, sườn ngực đau trướng, xương khớp tê đau. Liều dùng, ngày 3 – 9g, dạng thuốc sắc hoặc hoàn, tán. Kiêng kỵ, phế hư, ho khan, không nên sử dụng thời gian dài hoặc liều cao.
Rau cải bẹ chữa được rất nhiều bệnh
- Trị ho đờm, suyễn kéo dài, hạt cải bẹ, hạt cải củ; còn gọi là lai phục tử (Semen Raphani), quả tía tô, cò ngọi là tô tử (Fructus Perillae frutescentis), đồng lượng 6 – 9g, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
- Trị mụn nhọt sưng đau, đau họng, hạt cải bẹ 9g vi sao, nghiền mịn, thêm chút nước; quấy đều tạo thành dạng hồ nhão, lấy bông sạch chấm thuốc, bôi vào nơi sưng đau, nếu đau họng thì bôi quanh vùng ngoài yết hầu, nếu nhọt bọc; hoặc viêm hạch lâm ba thì bôi chỗ sưng, làm nhiều lần trong ngày .
- Trị đau đầu, hạt cải bẹ 8g, vi sao, tán mịn, mặt khác lấy 10g gừng tươi; rửa sạch, thái phiến, giã nát, vắt lấy nước cốt. Đem bột hạt cải bẹ trộn đều với nước gừng, rồi bôi vào vùng gáy.
Các tác dụng khác của rau cải bẹ
Cải cay chứa một lượng vitamin C dồi dào, giúp tăng cường hệ miễn dịch. Chỉ cần một bát canh rau cải (tương đương 56g rau tươi hoặc 140g rau cải đã nấu chín) có thể cung cấp hơn 1/3 nhu cầu vitamin C cần thiết mỗi ngày. Ngoài ra, vitamin A trong cải bẹ xanh cũng giúp thúc đẩy sự tăng trưởng và phân chia của các tế bào T, một loại tế bào bạch cầu cần thiết để giúp chống lại các bệnh nhiễm trùng.
Trong cải bẹ xanh có các hợp chất có tác dụng kiềm chế cholesterol. Do vậy, nếu ăn rau cải thường xuyên sẽ gián tiếp hỗ trợ tim, tốt cho mạch máu của cơ thể. Đặc biệt, khi cải bẹ xanh được chế biến theo cách luộc, hấp thì hiệu quả trong việc giảm lượng cholesterol lớn hơn, so với ăn sống. Trong cải bẹ xanh có chứa hai hợp chất là lutein và zeaxanthin đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ mắt. Cụ thể, hai hợp chất này giúp bảo vệ võng mạc của chúng ta không bị oxy hóa, cũng như lọc được ánh sáng xanh có khả năng gây hại cho mắt.